Năm 2014 đánh dấu hai sự kiện lớn trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc: Kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến 74 chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng hòa hy sinh, và kỷ niệm 35 năm ngày Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược chống Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm nay cũng đánh dấu 26 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa, khiến 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh.
Qua nguồn tư liệu do nhà nước Việt Nam phổ biến công khai sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc và qua đối chiếu với nguồn tư liệu độc lập để kiểm chứng, ba điểm mốc thời gian của năm 1974, 1979, và 1988 phản ánh các mắt xích trong một chiến lược lâu dài, nhất quán, của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam: Bắt đầu từ thập niên 1950 cho đến ngày nay, bằng những mưu đồ, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt khác nhau, thay đổi tùy tình huống, Trung Quốc luôn luôn muốn kiềm chế Việt Nam, giữ Việt Nam ở vị thế nước yếu kém, lệ thuộc vào Trung Quốc.
Mặc dù vào năm 1979, Trung Quốc thất bại thảm hại trong việc sử dụng hàng trăm ngàn quân tinh nhuệ và hoả lực hùng hậu để “dạy” cho Việt Nam một bài học, kể từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, Trung Quốc thành công đáng kể trong nỗ lực kiềm chế Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông.
Kiện toàn hồ sơ
Do Việt Nam có chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa rõ ràng, vững chắc, và do hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc trên Biển Đông, nhiều năm trước, người viết đề nghị Việt Nam kiện toàn hồ sơ chủ quyền, tham vấn chuyên gia người nước ngoài, tranh thủ ủng hộ của khu vực và thế giới trong việc sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
Thực tế cho thấy, trong gần 20 năm, lãnh đạo Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hòa bình”, trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, và trên cơ sở “16 chữ vàng, 4 tốt”. Việt Nam hoàn toàn bị động, tiêu cực, không có một phương án nào khác biệt với lập trường của Trung Quốc cho Biển Đông.
Trong cùng thời gian, Trung Quốc tích cực xây dựng sức mạnh trong cả hai lãnh vực quyền lực mềm và quyền lực cứng về Biển Đông: Ban hành “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” bao gồm quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa năm 1992 (20 năm trước khi Luật Biển Việt Nam được ban hành).
Kể từ giữa thập niên 1990, họ đầu tư vào các học viện, trung tâm nghiên cứu chiến lược, quy mô lớn, thu hút sự tham gia của giới nghiên cứu, chuyên gia người nước ngoài. Họ vận động để có quan toà Trung Quốc trong hai cơ chế luật pháp quốc tế: Toà án Quốc tế (ICJ) và Toà án Luật Biển (ITLOS).
Kể từ năm 1999, Trung Quốc ban hành lệnh cấm đánh cá ba tháng mỗi năm, bao gồm vùng biển của Việt Nam; hiện đại hoá lực lượng hải quân để gia tăng sự hiện diện của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông; lôi kéo đồng minh trong khối ASEAN; nâng cấp đơn vị hành chính quản lý các đảo chiếm đóng bất hợp pháp thuộc Hoàng Sa-Trường Sa, v.v.
Việt Nam và Trung Quốc thắt chặt quan hệ nhưng còn mâu thuẫn vì biển đảo
Mãi cho đến đầu năm 2013, lãnh đạo Việt Nam mới đề cập đến sử dụng công cụ luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Vài diễn biến đáng ghi nhận trong ba tháng đầu năm 2014 là việc nhà nước cho kỷ niệm một cách giới hạn 40 năm trận đánh Hoàng Sa giữa hải quân Việt Nam Cộng hoà và hải quân Trung Quốc, cho thành lập Quỹ hỗ trợ nghiên cứu biển Đông để thúc đẩy việc nghiên cứu, và trong một cuộc gặp chính thức, Đại sứ Việt Nam tại Philippines thông báo cho phó Tổng thống nước bạn biết là Việt Nam ủng hộ Philippines trong cuộc tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc.
Các bước đi này, dù muộn màng nhưng đúng hướng, cần thiết phải có cho quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa và bảo vệ quyền lợi đất nước trên Biển Đông.
Những bước đi khác mà Việt Nam nên khẩn trương thực hiện song song là:
- hoàn chỉnh một cách khoa học, nghiêm túc, hồ sơ bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa-Trương Sa qua đóng góp của giới nghiên cứu (độc lập cũng như trực thuộc bộ máy chính quyền) và qua tham vấn chuyên gia luật pháp quốc tế người nước ngoài
- trong khi hiện đại hóa quốc phòng là điều không thể thiếu trước tham vọng bành trướng của Trung Quốc, là nước yêu chuộng hoà bình, Việt Nam tiếp tục phát huy mặt thuận lợi trong quan hệ ngoại giao với các nước, trong và ngoài khu vực
- do điều kiện đảo, đá, do nhu cầu giảm thiểu mức độ xung đột, tranh thủ ủng hộ của quốc tế, và do khả năng vô hiệu hoá đòi hỏi đường lưỡi bò của Trung Quốc, Việt Nam chủ trương quy định ngay cả đảo lớn nhất thuộc Hoàng Sa và Trường Sa có lãnh hải 12 hải lý và không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa
Việt Nam nên năng động, tích cực trình bày cho thế giới thấy rõ rằng, do vị thế chiến lược của các đảo này, Hoàng Sa-Trường Sa đóng vai trò then chốt trong đòi hỏi đường lưỡi bò của Trung Quốc.
Mang lại ổn định
Quyết tâm của Việt Nam nhằm thúc đẩy sử dụng luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc không chỉ để giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh hải giữa những bên liên hệ mà còn để mang lại ổn định cho tất cả các nước có giao thông hàng hải đi ngang qua một khu vực quan trọng hàng đầu thế giới và có diện tích rộng bằng một phần ba diện tích nước Mỹ.
Nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry vào giữa tháng 2 năm 2014, Trung Quốc tuyên bố tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương, trên cơ sở chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế.
Để tạo đột phá trong bế tắc hiện nay và để tranh thủ thuận lợi hiện có, xét từ góc độ luật pháp quốc tế và tình hình khu vực, Việt Nam nên hoặc tự mình, trong trường hợp Hoàng Sa, hoặc cùng Philippines, Malaysia, trong trường hợp Trường Sa, hoặc một kết hợp khéo léo của cả hai phương án, công khai kêu gọi Trung Quốc đồng ý để cơ chế luật pháp quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Trung Quốc có quan tòa đại diện trong Toà án Quốc tế và Tòa án Luật Biển; Trung Quốc cũng luôn luôn khẳng định trước dư luận thế giới là họ có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý hậu thuẫn cho đòi hỏi đường lưỡi bò nói chung và quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nói riêng.
Nếu khẳng định chủ quyền của Trung Quốc là dựa trên cơ sở sự thật, khó có bất kỳ lý do chính đáng nào cho Trung Quốc viện dẫn để từ chối vai trò giải quyết tranh chấp giữa các nước mà Tòa án Quốc tế đã và đang hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm nay.
Việt Nam đang thật sự đối diện với một trách nhiệm to lớn mà lịch sử giao phó: sử dụng công cụ luật pháp quốc tế để duy trì an ninh và trật tự trong một khu vực trọng yếu của thế giới.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một chuyên gia khoa học không gian hiện sinh sống ở Hoa Kỳ.