Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Thành lập Trung tâm bảo vệ khách du lịch

Hiệp hội Du lịch Việt Nam đề xuất với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần cấp bách xây dựng Trung tâm du khách để bảo vệ khách du lịch.
Thông tin được đưa ra tại buổi Tọa đàm Xây dựng hình ảnh Việt Nam qua hoạt động du lịch vừa tổ chức sáng nay (23/2) ở TP.HCM.
Thành lập Trung tâm bảo vệ khách du lịch
Trung tâm du khách nhằm bảo vệ khách du lịch an toàn
Theo đó, trung tâm này sẽ được thành lập tại bất cứ vùng miền nào có khu du lịch lớn và ít nhất là 3 lượt triệu du khách/năm như Quảng Ninh, Hải Phòng, TP.HCM, Hà Nội, Khánh Hòa…
Không chỉ có nhiệm vụ cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến tour, dịch vụ du lịch…, Trung tâm du khách còn như một đường dây nóng, khi khách du lịch gặp trục trặc về bất cứ vấn đề gì sẽ được các lực lượng an ninh hoặc các cơ quan chức năng khác đến giải quyết, bảo vệ du khách trong thời gian nhanh nhất.
Theo ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam, ý tưởng này được hình thành sau khi Hiệp hội nhiều lần đề nghị thành lập cảnh sát du lịch nhưng không thành công nên đã tự lập các đội bảo vệ du khách. Kết quả cho thấy, tình trạng chèo kéo, chặt chém du khách đã giảm đi đáng kể. Do đó, Hiệp hội quyết định đề xuất thành lập Trung tâm du khách càng sớm càng tốt.

Những bãi biển hoang sơ quanh Sài Gòn

Nằm trong phạm vi 100 – 120km, nhưng không như Vũng Tàu thường quá tải vào dịp tết, các biển như Tân Thành, Thới Thuận... khá vắng là lựa chọn thú vị cho một ngày đổi gió trong dịp Tết. Biển Cần Giờ Trong phạm vi nói trên thì biển Cần Giờ là đích đến nhanh nhất (khoảng 1h30 phút). Là một trong những biển mới hình thành, biển Cần Giờ mang nét đẹp của một bãi biển cát đen, sóng nhẹ và hàng dương xanh rì rào trong gió. Ngoài điểm cộng về thời gian, trên đường ra biển, nếu thích bạn có thể tham quan rừng sát, đảo Khỉ... Biển Tân Thành Từ Sài Gòn về Gò Công theo con đường qua bắc Mỹ Lợi dài khoảng 60 cây số là tới thị xã Gò Công; đi thêm 16 cây số nữa sẽ tới Tân Thành. Cũng là một trong những biển mới hình thành, nước biển tân thành có màu đục do cát đen. Chưa kể đoạn bờ kè dài gần 300m có tác dụng chống sạt lở ảnh hưởng khá nhiều đến mỹ quan của bờ biển. Song bạn vẫn có thể hoà mình vào biển với những trò chơi thú vị. Sau khi tắm biển thoả thê, đừng bỏ quên việc tham gia cào nghêu với dân địa phương. Nếu chịu khó, bạn có thể thưởng thức vài ký nghêu thành quả của mình. Đó sẽ là kỷ niệm tuyệt vời của chuyến đi. Biển Thới Thuận Thường được nhắc đến với vùng đất 2 cù lao, song ít người biết rằng Bến Tre cũng có 1 xã giáp biển là Thới Thuận. Sự kết hợp giữa biển và phù sa mang đến cho vùng biển này một màu sắc khá lạ mà ngư dân và du khách thường gọi là “biển đỏ”. Biển Lộc An Thuộc địa phận 2 xã Lộc An, huyện Ðất Ðỏ và Phước Bửu huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, bãi biển Lộc An tuyệt đẹp với làn nước trong xanh, bờ cát trắng, những con sóng mạnh, rừng dương bạt ngàn. Ngoài ra, đến đây trong dịp này, bạn sẽ được thưởng lãm bức tranh hàng trăm cây hoa anh đào khoe sắc trên đường. Biển Phước Hải Để đến được Phước Hải, từ TP.HCM, bạn chạy theo quốc lộ 51C (đường ra Vũng Tàu), đến ngã 5 thị xã Bà Rịa thì theo đường Trường Chinh, đến dường đường 44 ra Long Hải. Chạy tiếp đường 44 ven biển khoảng 7.5km nữa sẽ đến chợ Phước Hải (tính từ Mộ Cô - Long Hải), đi tiếp thì đến biển. Phước Hải sở hữu đầy đủ những nét duyên của một bãi biển đẹp, hoang sơ và quyến rũ với du khách. Ngoài ra, hầu hết cư dân ở đây sống gắn với biển nên mỗi buổi sáng hay chiều, khi thuyền về, bạn có thể tận tay chọn những hải sản tươi rói cho thú vui ẩm thực của mình. Long Sơn Long Sơn cách TP.HCM khoảng 100km, là một xã đảo thuộc thành phố Vũng Tàu. Ngoài những bờ biển đẹp, đến Long Sơn, bạn còn được chiêm ngưỡng một vùng sông nước hữu tình, nên thơ với những dãy núi trập trùng hoà cùng những khu rừng ngập mặn, những cụ già vận áo bà ba tóc búi củ hành chân chất, ngôi nhà lớn tuyệt đẹp.... Đặc biệt, bạn còn được tham quan và thưởng thức những con hàu nướng tươi ngọt tại làng hàu Long Sơn. Hồ Tràm Được khai thác những năm gần đây, nhưng vẫn được ít người biết đến do vắng và ít dịch vụ. Song bạn sẽ nhanh chóng quên đi những ưu tư lo lắng của cuộc sống với thiên nhiên ban sơ của bờ cát trắng mịn và làn nước xanh như ngọc, của rừng dương xanh mát, của những làn gió lồng lộng từ biển.

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

Nét bình dị của Hà Nội trong những sáng mùa đông

ây là những bức ảnh của tôi ghi lại những buổi sáng mùa đông ở Hà Nội, có thể chỉ là những hình ảnh bình thường ta vẫn thấy nhưng lại mang nhiều nét đẹp bình dị thân thuộc nhưng nhiều người trong chúng ta đã vô tình bỏ qua.
 Hồ Gươm yên ả lặng lẽ trong những sáng mùa đông.

Hà Nội thường ngày có những nét đẹp rất riêng mà không phải bất cứ ai sống ở thủ đô cũng nhận ra và dừng lại chiêm ngưỡng. Đó có thể là những buổi sáng mùa đông, nghe gió bấc lùa vào cửa sổ, chợt thấy không gian yên tĩnh lạ thường. Không còn những xô bồ, ồn ã, ta lang thang trên con phố nhỏ, để cảm nhận một nét đẹp bình dị rất đỗi thân quen.
 Dù tiết trời lạnh lẽo nhưng hai cụ ông này vẫn giữ thói quen đi bộ quanh hồ Gươm và trò chuyện với nhau.
  Bữa sáng bên gánh hàng rong trên hè phố cổ.
 Ngồi nhâm nhi một ly cafe vỉa hè, với tờ báo mới trên tay
 Hát thánh ca sáng Chủ nhật ở Nhà thờ Lớn.
 Những chiếc xe đạp hối hả từ chợ hoa đêm Quảng Bá tỏa đi khắp phố phường.
 Những bông hoa tươi tắn rực rỡ khoe sắc trong ngày đông, trên một ngõ nhỏ nào đó.
 Gió thổi lạnh buốt qua hàng cây ven hồ Tây.
  Lễ kéo cờ trên quảng trường Ba Đình lúc 6h một buổi sáng đầu đông. Đây là nghi lễ trang nghiêm mà bất cứ ai đến Hà Nội cũng muốn một lần được chứng kiến.
 Một chút nắng đông ấm áp sau cơn mưa. Đường Phan Đình Phùng lại chứng kiến dòng người tấp nập bắt đầu một ngày mới.

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

Hà Nội xưa

“Métropole” không phải là khách sạn ra đời sớm nhất nhưng chắc chắn là khách sạn có truyền thống lâu bền và tiêu biểu nhất gắn với Hà Nội. Buổi đầu Tây chiếm đóng, một số quán trọ đã xuất hiện tập trung bên Bờ Hồ và dọc Phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền).
Ở Sài Gòn, chỉ một năm sau khi buộc nhà Nguyễn “nhượng đất”, viên Phó đô đốc thực dân Lagrandière đã ban hành quyết định thành lập một Vườn Bách Thảo và Bách Thú vào ngày 10/6/1863. Còn ở Hà Nội, một khu vườn tương tự được khởi công vào năm 1890, tức là chỉ 2 năm sau khi Hà Nội được vua Đồng Khánh trao cho Pháp làm thành phố nhượng địa.
Ban đầu nó chỉ là một vườn thí nghiệm, được trao cho một viên dược sĩ hải quân biệt phái về Sở Nông lâm để nghiên cứu phương thức di thực các loại thảo mộc từ nước ngoài, nhất là từ các thuộc địa châu Phi qua để bổ sung cho các loại cây trồng đô thị và phát triển trồng trọt  Dần dà cùng với các giống cây, ngày một phong phú là một số thú nuôi thích hợp như hươu nai, đặc biệt thu hút người xem là gấu, cọp và voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn còn đựoc gọi là Bách Thú.
Đền hàng hoa
Ban đầu, khu vườn cây trồng và nuôi chim thú này chỉ là một cảnh quan hỗ trợ cho không gian của Phủ Toàn quyền Đông Dương, trên đất của các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân.
Không gian này bao lấy môt gò núi đất nhỏ mà dân vẫn quen gọi là Núi Nùng, nhưng tên dân gian của nó là Núi Sưa vì trên đó mọc nhiều loại cây này. Trên lưng núi, lại có đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế, tương truyền là người giúp nhà Lý đánh giặc phương Nam, nên được phong làm thành hoàng của mấy làng trong khu vực. Ngay chân núi lại có mấy hồ nước hơn hẳn vườn ở Sài Gòn. Ở đây từng có một ngôi “đền Hàng Hoa” rất đẹp
“Vui nhất là Chợ Đồng Xuân
Thức gì cũng có xa gần bán mua”
Câu ca dao này hẳn ra đời muộn hơn năm 1888 là thời điểm chính quyền Pháp bắt tay vào quản lý Hà Nội như một thành phố “nhượng địa”  và ngày 6/4/1888 đã ký một quyết định thành lập một ngôi chợ mới.
Chợ Đồng Xuân được lắp đặt bằng khung thép và lợp mái tôn
Hồi xưa, đồng hồ còn là vật dụng hiếm quý nên Hà Nội chỉ có dăm cái đồng hồ công cộng để báo giờ cho dân chúng. Tuy nhiên, chỉ duy nhất một cái đặt chơ vơ giữa khoảng không gian rộng, trên một cái cột gang, tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời.
Hoàng thành Thăng Long qua các triều đại có thể to nhỏ khác nhau, vòng thành có thể rộng hẹp khác nhau, nhưng trên trục hoàng đạo nối từ Cửa Bắc đến Cửa Nam có một địa điểm không khi nào thay đổi, đó chính là Điện Kính Thiên.
Một góc điện Kính thiên-Công trình phòng thủ của quân Pháp
Những nhịp cầu rất đặc trưng in trên nền trời giúp chúng ta dễ dàng định vị được con đường được chụp trên tấm ảnh này. Người Pháp gọi chung con đường chạy dọc bờ sông Hồng này là “Quai de Commerce” (Kè Thương mại). Hãy để ý lúc này chưa có đê dọc Sông Hồng
Phố hàng Đào. Rue de la Soie – tên gọi chính thức bằng tiếng Pháp trong bản đồ hành chính thành phố Hà Nội – đủ để giải thích tên gọi “Hàng Đào”. Đây chính là phố bán các loại vải vóc, tơ lụa mà có lẽ là loại vải màu điều (đào/đỏ).
Ngôi nhà ngoài cùng bên phải ảnh chính là nhà số 4 nơi cư trú của gia đình cụ Cử Lương Văn Can. Ngôi nhà 2 tầng có lan can màu trắng cách 2 ngôi nhà tiếp theo là nhà số 10 nơi mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Điểm rẽ của 2 tuyến xe điện, một đi thẳng vào Hàng Đào đi tiếp tới Chợ Đồng Xuân; một rẽ trái theo phố Hàng Gai lên Cửa Nam
Mã Mây xưa kia là 2 phố với hai đặc trưng hàng nghề là Hàng Mây ở đoạn gần Hàng Buồm và Hàng Mã Vĩ ở đoạn sát Hàng Bạc
Người Pháp gọi tên phố Mã Mây là Phố quân Cờ Đen để ghi nhận nỗi kinh hoàng của cả Tây lẫn ta với đám quan quân đến từ Phương Bắc hoành hoành và từng trú quân tại đây.
Nếu chọn một công trình kiến trúc nào xưa nhất, lại ít thay đổi nhất của Hà Nội còn lại cho đến nay thì đó chính là Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Nhà Thờ Lớn được khởi công vào năm 1884 và khánh thành kịp vào dịp Lễ Thiên Chúa giáng sinh năm 1887. Kể từ đó cho đến nay, kiến trúc dường như không thay đổi. Xem các tấm hình cách đây đã trên dưới một thế kỷ thì thấy rõ điều ấy. Có chăng là sự thay đổi cảnh quan và con người mà thôi.
Nhờ cuộc xổ số năm 1884 thu đuợc 10 vạn đồng, Nhà thờ Thánh Joseph đã được khởi công ngay trong năm đó và được xây dựng như diện mạo ngày nay và được khánh thành ngày 23/12/1887, một ngày trước dịp Thiên Chúa giáng sinh.
Phố Cầu Gỗ rất gần Hồ Gươm nhưng bị khuất bởi một dẫy phố nằm kế bên Hồ, có một lối thông sang hồ cũng được coi là một phố (phố Hoàn Kiếm) và đó chính là vị trí của một chiếc cầu làm bằng gỗ bắc qua một con lạch nối Hồ Hoàn Kiếm với một hồ nước không nhỏ có tên là “Thái Cực”, sau khi bị lấp đã trở thành không gian của các phố nằm phía sau dẫy nhà lẻ của phố Hàng Đào (khu vực nay là chợ Hàng Bè).
Cảnh quan Hồ Gươm nhìn từ bờ phía Đông. Dòng lưu bút ghi bên lề tấm bưu ảnh (ngày 10/11/1902) cho biết tấm hình này phải được chụp trước thời gian nó được in thành bưu ảnh và được một khách hàng sử dụng.
Cầu Doumer, nay gọi là Cầu Long Biên khai thông từ năm 1902. Nhưng thưở đầu, mối quan tâm của nhà đầu tư chưa phải ưu tiên giành cho Hà Nội mà tuyến đường sắt chạy từ Cảng Hải Phòng chỉ vượt con Sông Cái (hay Sông Hồng) để đi thẳng lên Vân Nam xâm nhập vào thị trường vùng Tây Nam của cái quốc gia khổng lồ mà tất cả các đế quốc Âu Tây đang mong ước đựợc dự “bữa cỗ Trung Hoa”.
Ga Đầu Cầu tuy nhỏ nhưng đẹp và tiện lợi cho khách nhờ có 2 lối lên
Tại Hotel Grand Café đã có những buổi chiếu bóng đầu tiên rồi dần dần mới ra rạp chuyên cinéma.Bộ phim đầu tiên có tên là “Thần Cọp” và được trình chiếu vào 8/1920.Tại phố Nguyễn Xí, có một cái cổng nhỏ đi vào một rạp chiếu phim lấy tên là Palace

Nếu như rạp chiếu bóng lớn nhất và cũng tồn tại tương đối lâu bền nhất là Rạp Palace trên đường Paul Bert (nay là rạp Công nhân trên phố Tràng Tiền), chuyên chiếu các bộ phim do Hãng Gaumont sản xuất, thì sau đó không lâu, một rạp chuyên chiếu phim của Hãng Pathé cũng xuất hiện tại khu đất trống bên cạnh đền Bà Kiệu, trước cửa đền Ngọc Sơn.
Năm 1918, Trường nữ Sư phạm Hà Nội được thành lập, lúc đầu học ở Hàng Vôi sau chuyển ra Lò Đúc. Năm 1925, trường đổi thành Nữ Trung học Hà Nội (Collège des Jeunes Filles) ở phố Félix Faure (nay là Bộ Tư pháp ở phố Trần Phú). Địa điểm này bị Tây lấy làm Trường Nữ Trung học Pháp, đổi lại cho xây Trường Nữ Trung học Việt Nam ở phố Hàng Bài.Nay là trường THCS Trưng Vương
Tại ngã sáu, nơi giao nhau của nhiều đường phố: Hàng Than, Quán Thánh, Phan Đình Phùng, Hàng Lược, Hàng Giấy và Hàng Đậu có một công trình xây dựng khá độc đáo, lúc nào cũng đóng cửa kín mít.
Tường của công trình này xây bằng đá hộc, những chấn song sắt và những vòm cửa sổ, cùng cái mái tôn của một toà tháp cao tới 25 mét tính đến chóp, gây cảm giác nặng nề như chốn ngục thất đầy bí ẩn.
Nhưng thực ra đó chỉ là một tháp nước (chateau-d’eau) trong kết cấu của hệ thống cung cấp nước cho đô thị được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX. Có lẽ do trục đường huyết mạch từ cầu Doumer (Long Biên) trực chỉ vào khu thành cổ là nơi đóng binh và đầu não bộ máy cai trị của người Pháp, nên người ta quen gọi  đây là “tháp nước Hàng Đậu”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” ( Phố chiếu cói)
“Hàng Chiếu” có lẽ là cách định danh đúng hơn cả nếu so với 2 cái tên đã từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và một theo cách gọi của dân là “Phố Mới”.
Cho đến nay cái từ “Ngang” của phố Hàng Ngang vẫn là một câu hỏi về ngữ nghĩa vì nó không phải là một sản vật như các “hàng” khác (như “Hàng Đường, Hàng bạc, Hàng Muối trắng tinh”).
Có nhà nghiên cứu liên tưởng đến một địa danh khác của Hà Nội là phố “Đình Ngang” vốn là con đường cửa ngõ đi vào trong thành qua cửa phía Tây Nam, vì thế có một cái đình được dựng ngang đường cho một đám quan quân đồn trú để tiện bề kiểm soát người qua lại.
Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa và không bị thay đổi, có chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một chiếc cầu đá bắc ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng Lược qua Hàng Cá, dọc Ngõ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mã Mây.
Cũng vì có cây cầu đó mà không gian cận ảnh của tấm hình này xưa kia chính là Chợ Cầu Đông. Sông lấp rồi, cầu không còn, để khai thông con đường từ Bờ Hồ ra Hàng Đậu – là điểm giao với con đường khá quan trọng từ Cầu Sông Cái đi vào khu Thành cổ – nên chợ Cầu Đông xưa mới dịch chuyển sang một bên đường để lập ra cái chợ to và lấy tên hàng tổng là Đồng Xuân.

Trường đua ngựa mà nhiều người hay gọi là sân Quần ngựa ở Hà Nội có từ rất sớm. Cuốn “Le Vieux Tokin” (Bắc kỳ xưa) cho biết cuộc đua ngựa đầu tiên ở Hà Nội diễn ra ngày 15/7/1886 trong khuôn khổ những hoạt động mừng Quốc khánh Mẫu quốc năm ấy của đạo quân chiếm đóng và phải 2 năm sau (1888) Tourane (Đà Nẵng) và Nam Định mới có nơi đua ngựa…
Nếu bạn đến rạp xiếc Hà Nội hiện đặt tại khu vực Công viên Thống nhất, bạn có thấy một đôi tượng sư tử bằng đồng rất đẹp. Đó chính là dấu tích còn lại duy nhất (!?) của một công trình kiến trúc rất đẹp mà thoạt nhìn nhiều người ngỡ tưởng nó ở xứ sở xa xôi nào đó bên châu Âu.
Toà nhà do kiến trúc sư Bussy thiết kế . Còn cuộc Đấu xảo năm 1902 được khánh thành vào ngày 16-11-1902.Toà kiến trúc đã biến mất sau trận ném bom của máy bay Đồng Minh (Mỹ) vào thời kỳ phát xít Nhật đang chiếm đóng nước ta trong thời Đê nhị Thế chiến. Hai bức tượng đồng là phần duy nhất không bị bom đạn huỷ hoại
Các cuộc “đấu xảo” được tổ chức tại Hà Nội từ cuối thế kỷ XIX, nhưng cuộc “Đấu Xảo-1902” được coi là đặc săc nhất không chỉ là sự kiện diễn ra vào đầu thế kỷ mới (XX) mà năm đó còn diễn ra một sự kiên trọng đại là khánh thành chiếc cầu thép khổng lồ bắc qua sông Hồng nối đường xe lửa từ Hải Phòng đến Hà Nội và ngược lên phía bắc để tới vùng Vân Nam của Trung Quốc
Trường Bảo hộ, nay là trường THPT Chu Văn An. Từ đây đã sản sinh ra những tên tuổi như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng…
Nhiều người nhìn tấm ảnh này đều dễ dàng nhận ra bức tượng “Nữ thần Tự do” đã quá quen thuộc, sừng sững ở cửa ngõ TP New York của Hoa Kỳ… Bức tượng trong ảnh này đúng là Tượng nữ thần Tự do, nhưng rõ ràng là nó nhỏ hơn, lại nằm trên một đường phố của Hà Nội.
Với những người từng sống ở Hà Nội trước ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) thì vẫn có cơ hội trông thấy bức tượng này, được dựng tại Vườn hoa Neyret (nay là Cửa Nam) ngay đầu phố Hàng Bông và nhìn sang đường Cấm Chỉ.
Tượng Công lý, thường được dân gian gọi là tượng Bà Đầm Xòe.
6 tấm ảnh bổ sung của bác Tata
 

Chợ Đồng Xuân


Đền Ngọc Sơn

Phố Tràng Tiền 1897
Ô Quan Chưởng nhìn từ đê Sông Hồng 1926
Ô Quan Chưởng 1928

Đền Ngọc Sơn năm 1930

Xem lại cảnh lều chõng đi thi ở Việt Nam thời Nguyễn

Nho sinh phải mất rất nhiều công phu học và vất vả gian nan. Cực khổ nhất là phải chờ hai ba năm mới có kỳ thi. Khi đi thi thí sinh lại phải mang theo lều, chõng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành.

Giáo dục khoa cử ở Việt Nam có từ thời nhà Lý, kì thi đầu tiên vào năm 1075 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Đến năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lật đổ triều Tây Sơn và lập nên triều Nguyễn, dù là một triều đại trong thời kì cận đại nhưng nhà Nguyễn vẫn duy trì Nho học bởi tư tưởng Nho giáo vẫn còn là công cụ cai trị hữu hiệu cho một triều đình phong kiến.
Trường học thời nhà Nguyễn là nơi học sinh đến để học chữ Nho và Nho giáo. Ở nông thôn cũng như thành thị trước khi khoa cử bị bãi bỏ vào đầu thế kỷ 20 đều có những thầy đồ mở trường tư tại gia dạy học.
Thầy đồ làng.
Thầy đồ đa số là những vị quan về hưu hoặc những người chỉ đỗ tú tài tự ý mở lớp chứ không có sự giám sát của chính quyền. Một người thầy hay chữ có thể có đến hàng nghìn học sinh theo học. Với số đông như vậy thầy giáo thường chọn lấy một người học trò giỏi giang hơn cả mà giao phó trách nhiệm làm trưởng tràng, giúp thầy trông coi các môn đệ. Ngoài ra lại có cán tràng và giám tràng hiệp lực.
Trẻ con muốn nhập học thì thường mang xôi, gà đến biếu thầy và làm lễ khai tâm, cúng Khổng Tử để xin làm đệ tử.
Ở những làng giàu có thì một phần công điền gọi là "học điền" có thể được dùng để lấy tiền gạo nuôi thầy đồ trong làng, còn ở những làng không có phương tiện thì chỉ nhà giàu mới có tiền cho con theo học mà thôi.
Ngoài ra còn có một số cơ sở giáo dục thuộc nhà chùa, tuy không với mục đích dạy học trò để thi đỗ nhưng cũng góp phần vào việc đào tạo một số người.
Triều đình thì ở cấp huyện trở lên mới tham gia trong việc giáo dục. Thấp nhất là trường huyện có quan huấn đạo (hàng thất phẩm) dạy. Lên tới phủ thì quan Giáo thụ (hàng lục phẩm) rồi Đốc học (hàng tứ phẩm) ở trường tỉnh trông coi.
 Kể từ năm 1803 thì ở Huế mở trường Quốc Tử Giám để các con quan và những người trúng tuyển ở các tỉnh vào thụ giáo các quan tế tửu và tư nghiệp.
Trường Quốc học Huế.
Về tổ chức khoa thi, đời vua Gia Long chỉ tổ chức thi Hương, nhưng đến đời vua Minh Mạng khoa cử được chỉnh đốn lại và năm 1828 mở thi Hội, rồi thi Đình để chọn tiến sĩ.
Vua Minh Mạng cũng ra thêm học vị Phó bảng năm 1829 để chọn đỗ thêm người. Đặc biệt, việc thay đổi thời này là việc bỏ Đệ nhất giáp, học vị Trạng Nguyên, Bảng nhãn không còn trên khoa bảng nữa. Những thay đổi ở đời Minh Mạng kéo dài mãi đến năm 1919, thể chế khoa bảng chính thức bị bãi bỏ.
Năm 1887, thực dân Pháp xâm lược ở nước ta, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương, cách tổ chức thi cử,giáo dục từ đó cũng thay đổi theo. Trong giai đoạn đầu (1862-1917) ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có sự tồn tại song song giữa một chế độ khoa cử kiểu Nho giáo, và chế độ giáo dục của Pháp ở Nam Kỳ.
Như vậy, nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng áp dụng hình thức thi cử theo lối nho giáo tồn tại cả ngàn năm. Cùng nhìn lại khoa cử, giáo dục thời Nguyễn:
 
Nho sĩ thời Nguyễn.
Trường thi Nam Định năm 1897.
Cảnh lều chõng đi thi.
Giám khảo coi  thi.
Bảng vàng.
Sĩ tử và thân nhân nghe xướng danh.
Tổng đốc thay mặt nhà vua ban yến tiệc cho các tân khoa.
Tân khoa dự tiệc.
Tân khoa dạo phố.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...